BIÊN KHẢO I: DANH NHÂN TRẦN HƯNG ĐẠO – NGUYỄN TRÃI

BINH THƯ YẾU LƯỢC
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

Lời Dẫn:
(2011-02-28, 12:16)

Đức Thánh Trần là Danh nhân Việt Nam đặc biệt. Nghiên cứu và vinh danh Đức Thánh là nguyện ước của người viết; Cho nên một bản đã có sớm trong blog đầu tiên hoanglongthu (TV: Tư Khố - Cac Tai Lieu Quan Trong). Do khiếm khuyết kỷ năng, bản đó được thay thế bằng “Hoàng Thư” và hy vọng (như hiện trạng) đáp ứng mong muốn HỌC và VIẾT.
Nguồn đầu tiên là từ “Việt Nam Thư Quán” như thượng dẫn. Sẽ hoàn chỉnh như một tư liệu cá nhân trong quá trình tìm học và hoàn chỉnh văn bản.

Cẩn bút,
Hoàng Thư Bùi-Viết Văn-Đức

Mục Lục:
Lời nói đầu (Dịch giả LÊ XUÂN MAI, Mười Sáu Tháng Giêng Kỷ Dậu)
•THIÊN-TƯỢNG
•GIẢN-MỘ
•TUYỂN TƯỚNG
•MỆNH TUỚNG
•TƯỚNG-ĐẠO
•GIẢN-LUYỆN
•QUÂN-LỄ
•THUỞNG PHẠT
•MẠC-HẠ
•BINH-CỤ
•HIỆU-LỆNH

Lời nói đầu
(Dịch giả LÊ XUÂN MAI, Mười Sáu Tháng Giêng Kỷ Dậu)

Việc binh là việc sống chết của nhân-dân, là việc còn mất của quốc-gia nên bất cứ triều-đình nào, chánh-phủ nào, cũng đều phải lưu tâm đến binh-học. Bởi lẽ ấy, các võ-quan thời xưa đều phải thi võ-thuật và chịu khảo-hạch về binh-thư. Nhưng các binh-thư lại có rất nbiều thứ. Phần Nghệ-văn-Chí trong Hán- thư có chép rằng: Nhiệm-hoành chia các binh-thư ra làm 4 loạỉ:
1.Binh Quyền Mưu,
2.Binh Hình-thế.
3.Binh Âm Dương
4.Binh Kỹ-xảo.
Nếu điểm qua các binh-thư trứ danh của Trung-quốc trong các đời thì về đời Tam-hoàng có các sách:
Huỳnh Đế Binh Pháp
Ốc-Kỳ-Kinh của Phong-Hậu
Trong đời Chu được soạn các sách:
Thái-Công Binh-pháp của Lã-Vọng
Lục-Thao của Triều-đình Chu
Chu-Công Tư-Mã-Pháp
Tư-Mã Binh-pháp của Điền-Nhương-Tư (nuớc Tề)
Tôn-Tử Binh-pháp của triều-đình Ngô
Ngô-Tử Binh-pháp của triều-đình Ngụy
Uất-Liễu-Tử Binh-pháp của Uất-liễu (học trò của Quỉ Cốc Tử)
Trong đời Hán có:
Tố-thư của Huỳnh-thạch-công
Tâm-thư của Khổng-minh
Vào đời Đường có:
Thái-Bạch Âm-Kinh của Lý Thuyên
Lý-Vệ-Công Vấn-Đối của triều-đình Đường,…
Nếu chỉ xét riêng các binh-thư còn thấy được ngày nay cũng có tới 53 nhà:
-13 nhà về Quyền Mưu
-11 nhà về Hình Thế
-16 nhà về Âm-duơng
-13 nhà về Kỹ Xảo
Xem trên thì đủ hiểu rằng binh-học sâu rộng như rừng, như biển, làm sao các võ-quan có thể đọc hềt các binh-thư được. Bởi thế, các đời sau có soạn những bộ binh thư tổng-hợp thường được gọi là Võ Kinh. Trong đời Tống có các bộ:
Võ Kinh Tổng-Yếu (40 quyển) của nhóm Tăng-Công-Lượng
Hổ Kiềm-Kinh (20 quyển) của Hứa Động
Bị-Luận (l quyển) của Hà-Khứ-Phi
Mỹ-Cần-Thập-Luận (l quyền) của Tân-Khí-Tật
Võ-Kinh Thất-Thư gồm có 7 sách tuyển-định là:
1.Thái-Công Binh-pháp
2.Lục-Thao
3.Tư-Mã pháp
4.Tôn-Tử
5.Ngô-Tử
6.Uất-Liễu-Tử
7.Lý-Vệ-Công Vấn-Đối
Trong đời Minh có các bộ :
Võ-Kinh Khai-Tông (14 quyển) của Huỳnh-Hiến-Thần
Võ-Kinh Tá-Nghị (7 quyển) ;
Võ Biên (12 quyển) của Đường-Thuận-Chí
Võ-Bị Chí (240 quyển) của Mao-Nguyên-Nghi
Võ-Bị Tâm-Lược (7 quyển) của Thi-Vĩnh-Đồ, vân vân.
Các binh thư soạn ra thực là nhiều, không kể xiết! Nhưng từ đời Minh trở về sau binh-học của Trung quốc có vẻ suy-đồi nên các binh-thư soạn ra về sau ít được người đời nhắc nhở.

Trong dĩ-vãng, nước Việt-nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh. Các triều đại lớn như Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều được xây-dựng và giữ-gìn bằng chiến-công nên không thể xao-lãng nghề võ. Vì chịu ảnh hưởng của văn-minh Trung-quốc, các võ tướng Việt Nam ắt phải đọc những binh thư của Trung-quốc điều ấy cũng hợp lẽ, vì các binh-thư ấy rất có giá-trị, không phải riêng đối với Á-Đông, mà còn đối với thế giới nữa. Thử hỏi các binh-gia Âu-tây ngày nay, ai mà không biết uy-danh của SUN TZE tức là Tôn-Tử? Ngoài ra, các triều-đình Việt Nam cũng có san-định võ-kinh riêng để cho các tướng sĩ học tập. Nếu chỉ kể những bộ nổi tiếng nhất thì đời Trần có bộ Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền và bộ Binh-Thư Yếu-Lược của Hưng-Đạo Vương Trần-Quốc-Tuấn, đời Nguyễn có bộ Hổ-Trướng Xu-cơ của Lộc-Khê Hầu Đào-Duy-Từ.
Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền là một binh-thư rất quí, thuộc loại âm-dương học, không thể phổ-thông ra ngoài dân chúng, vậy ta không thể bàn-luận điều gì. Nhân-Huệ-Vương Trần-khánh-Dư đề tựa sách ấy, viết như sau:
“Phàm dùng binh giỏi thì không cần bày trận, bày trận giỏi thì không cần đánh, đánh giỏi thì không thua, khéo thua thì không mất.
“…Ngài Quốc công của chúng ta (tức là Vương Hưng-Đạo) xem hoạ đồ của các nhà mà soạn thành một bộ sách, tuy chỉ chọn lấy các chỗ tinh-vi nhưng sao lục đầy-đủ các chỗ cốt-yếu, loại bỏ các chỗ vụn vặt, rút lấy các chỗ thực-dụng, đều lấy năm hành tương ứng chín cung thay nhau, phối-họp cứng mềm, xoay-chuyển tuần-hoàn, lạ-lùng bất ngờ, về thần-sát thất-diêu {trời, trăng và 5 sao kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), hưng-thần ác-tưóng, tam cát ngũ-hung đều chỉ bày rõ ràng…”
“Sách ấy dùng đã ba đời trăm đánh trăm thắng, cho nên đương thời có thể làm rúng-động quân Hung-nô (Mông-cổ) ở phía bắc, làm cho nước Lâm-Ấp ở phía tây phải khiếp uy, nên sách này được biên-chép làm của gia~truyền không được phép tiết lộ ra ngoài.
“Có lời di-chúc (của Vương Hưng-Đạo) dặn rằng : Về sau con cháu, bồi-thần học được bí thuật nay phải thi hành cho sáng suốt không được bày trận ám-muội hồ đồ.
“Lại có di-văn (của Vương) dạy rằng: nếu không tuần lời dạy.. thì sẽ chiêu vời tai-ương hoạn-nạn cho tới con cháu, đó là bởi tiết lộ thiên-cơ vậy”
Xem lời dặn của Vương, ta đủ hiểu rằng Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền là sách thuộc loại âm-dương-học chỉ dành riêng cho các bậc quân-su để cha truyền con nối mả giữ nước. Thêm nữa, danh-từ Vạn-Kiếp Tông tỏ rõ ý-chí của Vương muốn lập một tông-phái võ học tại Vạn-kiếp và Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền chính là binh-phả biệt-truyền của môn-phái.
Trái với bộ sách bí truyền nói trên, bộ Binh-thư Yếu-Lược là một võ-kinh thông thường có thể phổ-biến trong giới tướng-sĩ. Trong bài hịch răn dạy các tỳ-tướng, Vương há chăng nói “Các ngươi nếu chuyên tập sách này, nghe lời dạy bảo của ta, ắl đó là duyên thầy-trò kiếp xưa; còn nếu khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, ắt đó là mối cừu-thù kiếp trước!” hay sao? Tại sao các bộ Võ-kinh của triều Tống rất được thông-dụng mà Vương lại còn soạn ra bộ Binh-Thư Yếu-Lược? Hoặc Vương thấy các võ-kinh của Trung-quốc không được đầy đủ nên Vương muốn thêm vào những kinh-nghiệm của mình chăng? Hoặc Vương muốn người Việt phải có óc tự-lập, tự chủ nên Vương tự soạn ra một bộ binh-thư riêng biệt cho giới võ tướng Việt-nam chăng? Dầu sao, bộ Binh-Thư Yế-Lưọc đánh dấu một giai-đoạn mới cho nền binh-học Việt-nam bắt đầu muốn giữ một bản-sắc độc lập.
Một điều đáng để ý là bổn Binh-thư Yếu-lược còn lại ngày nay có chứa nhiều sự-kiện lịch-sử liên-quan đến hai triều Lê, Nguyễn: điều ấy chứng tỏ rằng triều Nguyễn cùng dùng sách ấy và đã thêm vào nhiều đoạn mới. Vậy ta có thể kết-luận rằng:
•Binh-thư Yếu-Lược là bộ võ-kinh đầu tiên của Việt Nam được thông-dụng trong các triều Trần, Lê, Nguyễn. Về sau, xu-hướng tự-lập, tự-cường của nền binh-học Việt Nam càng được nhận thấy rõ ràng trong cuốn Hổ-Trướng Xu-Cơ mà Lộc-Khê Hầu Đào-Duy-Từ" đã tự soạn ra cho triều Nguyễn khác hẳn các binh-thư xưa, sách này được chia ra 3 phần theo thuyết tam-tài: Thiên-tập, Địa-tập và Nhân-tập. Sau đây xinh trích dẫn một đoạn trong bài tựa của Hầu Tước Lộc-Khê ở đầu cuốn Hổ Trướng Xu-cơ:
“Người xưa có nói rằng:
- Nếu đùng chiến tranh để ngăn ngừa chiến tranh dầu phải đánh nhau, việc ấy cũng nên làm.
- Nếu giết người để yên người, dầu phải giết người, việc ấy cũng nên làm.
“Nhưng trong việc chinh-chiến có rất nhiều phép tắc, sát phạt có nhiều phương-sách chứng giống nhau. Có trí thì dùng trí, không trí thì dùng sức.
“Việc đánh phá các chỗ vững bền, cầm bắt tinh-binh của địch, cỡi ngựa múa roi, bỏ công-lao ra sống vào chết, nuôi chí thịt nát xương tan, đó chẳng qua là làm kẻ võ dũng, đâu có thể địch lại muôn người? Đó gọi là không dùng trí thì dùng sức vậy!
“Nay tôi thà đấu trí hơn là đấu sức, do đó ngẩng mặt tuân theo diệu ý của thánh hiền đời trước, cúi xuống nhờ cậy vào tài năng khéo-léo của các bạn lành, kiếm hết các kinh sách lạ-lùng trong thiên-hạ, tìm xem các phép-tắc khác thường xưa nay, rửa nghiên thấm bút, cúi chép một sách đặt nhan đề là Hổ-Trướng Xu-Cơ Trong sách ấy, bất cứ là hoả-công, thủy-chiến, trận rắn, trận chim, chiến lược, mưu-kế, các việc cơ-mật của binh-gia không chỗ nào mà không hoàn bị. Nếu tướng súy có cơ trí học được sách ấy thì có thể lập được công danh đứng trên muôn người đem lại thái bình trong mới hồi trống! Vậy nên trân-trọng giữ-gìn sách ấy mà chớ truyền thụ cho người ngoài vận-dụng.”
Lý-do chính đã thúc giục Hầu-tước Lộc-Khê soạn ra bộ Hổ-Trướng Xu-Cơ là các binh-thư của Trung-quốc quá rườm-rà và khó hiểu. Ta hãy xem một đoạn trích-dẫn từ bài tựa của ông Cao-Khuê Chiêu-Dương trong bổn chép tay vào đời Đồng-Khánh.
“Nếu có ai hỏi tôi rằng: Phàm việc còn mất của xã-tắc, việc mừng lo của nước của Vua đều tùy-thuộc vào một nguời tướng-suý. Cho nên làm tướng mà học binh-pháp thì cốt phải tinh-thông chớ chẳng cần học nhiều, cần phải mạnh-dạn mà phải gom kiêm mưu-trí nhờ đó mà khi ra khỏi cửa thành, tướng-suý có thể nắm vững then chốt phép cầm binh, là nơi treo giữ số-mệnh của ba quân. Nếu nghề võ chẳng được tinh-thông mà tướng-súy lại thiếu mưu-trí thì trong khoảnh-khắc lật nguợc bàn tay, giang-son phải chịu đổi dời, như thể chẳng đáng cẩn-thận hay sao?
“Vả lại các sánh đã soạn ra không phải là không hay nhưng lời-lẽ quá rườm rà, rắc rối, nhiều chỗ tinh thô chẳng giống nhau, khiến cho độc-giả như ngồi đáy giếng nhìn lên trời cao, thả một con thuyền lênh-đênh trên biển cả, mờ-mịt không biết nguồn cội ra sao, mênh-mông chẳng dò ra manh-mối, đành phải chịu như thế vậy!
“Cho đến triều ta, có ngài Lộc-khê có chí-khí ngang-nhiên khác thường cứ xem ngài phò-tá Vua Thánh-tổ nhà ta. Để danh tiếng nghĩa-đũng lại ngàn năm mang lại thái-bình trong một ngày như thế trong thâm tâm của ngài thực có chứa muôn ngàn giáp-binh vậy. Đến khi ngài trả ấn về hưu, vui cạnh núi vườn, cứ xem cái xu-hướg ấy cũng đã biết rằng ngài đứng ngang hàng với các bậc Y Doãn, Lữ-Vọng, Tử phòng, Khổng-minh vậy.
“Đến khi năm trời sắp hết lại sợ tâm-thuật của ngài không được truyền lại. tài-trí thần-diệu phải bị chôn vùi nhưng may-mắn có ông Triệu-Điền lanh-lợi hơn người được ngài đích-thân truyền dạy, rồi tới hai vị Bửu-Thúc, Cao-Lượng khám-phá các điều sở-học của ngài Lộc-Khê và của ông Triệu-Điền mà người đời chưa từng biết, đem ra truyền dạy cho nhau, thực là của báu của trời đất, há dễ ai mà thâu lượm hết được.
“Lại gặp bạn tôi là Hà-Hồ cũng ham-thích môn học bí truyền, nên chẳng tiếc công-lao, rửa nghiên thấm bút, chép ra một pho chia thành ba cuộn gọi là Hổ-Trướng Xu-Cơ, trong đó tỏ bày tất cả then máy huyền-bí của trời-đất, gom hết tinh-hoa của vũ-trụ, nên tôi không thể nén lòng phấn-khởi, vui-mừng mà cũng viết thêm ít lời như trên đây”.
Ta xem trên thì đủ hiểu rằng, sau Binh-Thư Yếu-Lược, bộ Hổ-Trướng Xu-Cơ là Võ Kinh mới nhất của Việt-nam vậy. Như thế đã từ lâu, tổ-tiên của chúng ta muốn sáng-tạo một nền binh-học độc-lập. Óc tự-lập, tự-cường ấy không phải là không chinh-đáng. Đọc lịch-sử, ta thấy rằng ngoài việc bình Chiêm, sáp-nhập Chân-lạp, đánh Xiêm, Lào để mở rộng bờ cõi, nước Việt-Nam nhỏ bé đã lập nhiều chiến-công hiển-hách để giữ-gìn non sông:
Đời Ngô phá Hán
Đời Lý đánh Tống
Đời Trần bình Nguyên
Đời Lê đuổi Minh
Đời Tây-sơn phá Thanh
Và trong khoảng 20 năm gần đây quân Việt mặc dầu ở phe-phái nào cũng đều chứng tỏ khả năng chiến-đấu khác thường khiến cho hoàn-cầu phải mỗi ngày chú ý đến chiến-cuộc ở Việt Nam. Nếu những chiến-công kể trên chỉ là những thắng-lợi lẻ tẻ và tạm thời, do sự may-mắn đem lại thì ta không nên vội tự khen. Thực ra, những chiến thắng ẩy chỉ là những đoá hoa tô-điểm cho những chiến-cuộc có thể kéo dài hàng chục năm trời. Chính những chiến cuộc lâu dài này mới chứng tỏ sức chiến-đấu dẻo dai và sức sống mãnh liệt của người dân Việt. Không cần phân-biệt kết-cuộc thành hay bại, ta hãy xét các sự kiện sau đây:
- Hai Bà Trưng-Trắc, Trưng-Nhị đánh quân Hán, hạ được 65 thành-trì, tự lập làm Vua, đánh nhau với danh-tướng Mã-Viện gần 3 năm mới chiu tử-tiết.
- Bà Triệu-Thị-Chinh cầm đầu l.000 thủ-hạ đánh nhau với quân Hán trong 3 năm mới chịu tử-tiết.
- Lý-Nam-Đế rồi tiếp theo là Triệu Việt Vương đánh nhau với quân nhà Lương trong 50 năm mới chịu thua.
- Dương-Diên-Nghệ rồi tiếp theo là Ngô-Quyền phải đánh nhau với quân Nam-Hán trong 7 năm mới giành độc-lập
- Lý-Thường-Kiệt đánh nhau với quân Tống gần 2 năm.
- Trần-Hưng-Đạo phải đánh nhau trong 5 năm với hai đạo quân Mông-cổ mới đuổi chúng về nước.
- Lê-Thái-Tổ phải đánh nhau gần 10 năm với quân Minh mới khôi phục giag-sơn.
- Nội-chiến Lê-Mạc 60 năm
- Nội-chiến Trịnh-Nguyễn: 45 năm
- Tây-sơn đuổi Nguyễn, Trịnh: 17 năm
- Nguyễn đuổi Tây-Sơn: 24 năm
- Chiến-cuộc Việt-Pháp-Mỹ: gần 20 năm.
Xem thế, ta thấy rằng hình như Trời bắt-buộc nước Việt phải trãi qua nhiều cuộc chiến-tranh lâu-dài để khiến cho dân Việt có một truyền thống chiến-tranh trong huyết-quản. Do đó, dân Việt có một định mệnh khác thường: Người Việt phải là một nông dân và là một chiến sĩ. Sau bao cuộc chiến tranh tàn-phá, dân Việt lại sinh-sôi nảy-nở, bành-trướng thêm, lại càng làm cho thế-giới biết rõ mình hơn và sắp bước vào giai-đoạn xây-dựng một nền văn-minh lành-mạnh truyền-bá khắp thế giới. Với một định-mệnh khác thường như thế, dân Việt phải rút sức mạnh tự mình, do đó phải có một nền võ-học tự-cường và một nền văn học tự chủ. Ngày nay trong lúc nhân-dân đang tranh-đấu để giang-sơn được độc-lập và thống-nhất, việc binh-học tỏ ra cần-thiết hơn bao giờ hết. Vậy đã đến lúc nên nghĩ tới việc san-định một võ-kinh hợp-thời cho quân-lực Việt-nam, thâu tóm mọi kiến-thức xưa nay. Để dọn đường cho các nhà binh-học tương-lai, tôi nghĩ rằng việc tham-khảo các binh-thư thời trước chưa hẳn là hoàn-toàn lỗi-thời và vô-ích.
Tôi vốn là người tân học nhưng đứng trước sách cũ của tổ tiên, chẳng dám chê-bai và khinh thường bởi nghĩ rằng: Dầu hay dấu dỡ, đây là di-thư của tổ-tiên. Nhờ đó tổ-tiên của chúng ta đã dựng nước và giữ nước, va nhờ đó mới có chúng ta ngày nay. Chúng ta nên trân trọng giữ nó như của báu quốc truyền vậy.
---oOo---
Đối với tôi việc phiên dịch sách Binh Thư Yếu Lược này của Vương Hưng-đạo chẳng những làm sống lại một thời dĩ-vãng xa-xăm, bấy giờ nhân-dân Việt-nam bị lôi-cuốn vào một cuộc tử chiến với quân Mông-cổ, mà còn nhắc lại cho chúng ta nhớ lại một đường lối tu-tập đã bị bỏ quên từ lâu: đó là Thánh đạo. Bởi thế ở đầu sách tôi có viết bài tiểu sử và đức độ của Vương đề cụ-thể-hóa nền thánh-đạo của nho-học Á-đông. Về bài này, tôi không có may-mắn tham-khảo được nhiều sách mà chỉ đọc qua-loa vài đoạn trong ba bộ sách là bộ Đại-Việt Sử-Ký của Ngô-Sĩ-Liên, bộ Khâm Định Việt-Sử Thông Giám Cuơng Mục và bộ Lịch-Triều Hiến-Chương Loại-Chí (phần Nhân-Vật Chí) của Phan-Huy-Chú; Nhưng về truyện của Vương, hai bộ sau không chép chi-tiết nào khác bộ trước, thành-thử rốt cuộc tôi chỉ sử-dụng bộ thứ nhất mà thôi. Tôi thành-thực nhận rằng đó là một khuyết-điểm lớn và xin để dành việc thâm cứu cho các sử gia.
Để làm bài tựa cho bộ sách này, tôi có chép nguyên-văn bài hịch của Vương và đưa ra một bản dịch tuy không hay bằng các bản dịch văn-hoa đã biết nhưng sát nghĩa hơn để quý vị độc giả xem đối-chiếu với Hán-văn. Bộ sách dịch này sẽ không hoàn thành được nếu không có sự trợ-lực của cựu Thiếu-tướng Mã Nguyên-Lương ở Long Hoa đã kiểm-điểm giùm bổn Hán-văn, và Dật-Sĩ Nguyễn-Phưóc-Hải ở Long-Khánh nhuận-đính giùm bản dịch. Vậy tôi xin ghi nơi đây lời cảm-tạ đối với hai tiên-sinh, vùa là thầy hay vừa là bạn quý.
Tôi vốn là người tân-học không thuộc sử kinh, lại không thông binh lược, nên việc phiên-dịch không thể tránh khỏi có nhiều sai-lầm. Vậy tôi xin nhận lỗi trước và thành-thực mong quý vị độc giả bố-thí lời chỉ-giáo.

Ấp Tây Nhì, Xã Phú Nhuận, Quận Tân Bình, Tỉnh Gia Định,
Mười Sáu Tháng Giêng Kỷ Dậu.

LÊ XUÂN MAI
kính đề
Sửa đổi bởi: vvn -- 21.3.2007 2:02:19
[Hoàng thư biên tập lần 1, 2011-02-26, 13:13]

QUYỂN THỨ NHỨT TƯỢNG TRỜI
[02:29, 2010-06-259]


1. PHÉP BÍ-MẬT XEM SẮC TRỜI VÀ SẮC MÂY TRONG TIẾT NGUYÊN ĐÁN
Tiết Nguyên-đán, đúng tháng giêng, ngày mồng một, giờ tý lên lầu bí mật xem bốn phương.
Nếu thấy khi mây màu vàng thi năm ấy thóc lúa trúng mùa lớn.
Nếu thấy khí mây màu trắng thì có việc binh-biến xảy ra, nếu chỉ có một vầng mây hiện ra một mình ở hướng nào thì ở hướng ấy có nạn đao-binh.
Nếu thìn bốn phương không thấy mây mà chỉ thấy hai màu đỏ trắng liền nhau, thì màu đỏ tượng trưng cho máu, màu trắng tượng-trưng cho chất kim (gươm, đao) hai màu ấy hiện ra ở hướng nào thì ở hướng ấy sẽ dấy loạn.
Màu xanh là điềm có nạn gió bão, mầu đen là điềm có nạn mưa lụt ; nước nào có điềm ấy thì phải phòng-bị

2. PHÉP XEM KHÍ HẬU BỐN MÙA:
NGÀY LẬP-XUÂN : Vào giờ dần, giờ mão, nếu ở hướng đông có mây trắng hiện ra như là trời thòng binh-khí xuống, xứ nào có điềm ấy thì sẽ sinh loạn lớn.
Nếu mây có hình-đạng như thanh kiếm treo ngược, đầu trên bằng, đầu dưới nhọn, thì xứ ấy sẽ chết hết, đó là điềm xấu. Mây ấy ở cao thì nạn còn chậm, mây ấy ở thấp thì nạn chết mau đến. Trong mọi trường-họp đêu phải lấy trăm phép toán thêm vào để biết chính-xác hơn.
NGÀY LẬP-HẠ : Vào giờ tý, giờ ngọ, nếu thấy ở hướng nam có mây đỏ như là binh trời bày việc chiến-tranh, hoặc giống như chỉa dáo, có hình dạng như khăn tay màu hồng thì ở hướng ấy có việc đao-binh xảy ra trong năm ấy, không đợi tới năm sau.
NGÀY LẬP THU : Vào giờ thân, giờ dậu, nếu thấy ở hướng tây có mây trắng mọc thẳng ngay lên, nếu ở tiết lập-thu thì trong năm ấy về hướng tây có binh dấy loạn.
Nếu vào giờ ngọ mà có mây trắng chắn ngang giữa trời như là tiến binh lập trận thì sẽ có binh dấy loạn.
NGÀY LẬP ĐÔNG : Vào giờ tý, giờ sửu, nếu ở hướng bắc có mây trắng hình dạng như chim thì ở dưới hướng ấy trong năm tới, vào tháng tư sẽ có việc đao-binh.
Nếu mây trắng có hình-dạng giống như Hồ-binh bày trận tiến binh thì năm tới vào thắng bảy xứ ấy sẻ nòi loạn. Hễ nghe có loạn thì phải chuẩn-bị gấp rút việc binh-mã

3. PHÉP XEM MÂY BAY ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI:
Mây là khí núi nhân vì gặp đá mà bốc lên, nên gọi là mây. Sách Cấm-thư nói rằng: Ngày Nguyên-đán vào giờ tốt bậc chủ-tướng nên đi lên lầu xem-xét.
Bốn phương trong sáng mà chỉ có một đám mây xanh hiện ra giữa. trời thì thiên-hạ sẽ đói kém mất mùa.
Nếu lâ mây trắng, sẽ có quốc-tang.
Nếu là mây đỏ sẽ có đổ máu, thiên-hạ đều dấy binh, các giống mọi rợ ở hướng đông và ở hướng bắc sẽ xâm-phạm biên-giới.
Nếu là mây đen, sẽ có mưa lụt.
Nếu là mây vàng đó là điềm lành.
Nếu ở bốn phương trời có gió bụi màu đỏ bay đầy núi sông thì sẽ có mưa.

4. PHÉP NGHE SẤM SÉT ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI:
Sấrn là trống của trời, nổ ra thì làm cho người ta sợ-hãi tới muôn dặm.
Nếu tiếng sấm phát ra hòa nhã khác thuờng thì trong năm ấy ở hướng có tiếng sấm sẽ được an-ổn.
Nếu sấm dội kinh-khủng thì bên chủ nên chuẩn-bị việc binh vì sẽ có giặc gây loạn lớn.
Nếu sấm động ở hướng chấn (đông), sẽ thấy cây-cối tốt-tươi, năm lành, nhiều sương.
Nếu sấm động ở hướng ly (nam), sẽ có đại-hạn (nắng lâu không mưa).
Nếu sấm động ở hưóng khôn (tây-nam), sẽ có tai-nạn lớn.
Nếu sấm động ở hướng đoài (tây), sắt sẽ trở nên quí-báu, nạn đao binh sẽ xảy ra.
Nếu sấm động ở hướng càn (tây-bắc), đó là điềm xấu.
Nếu sấm động ở hướng cấn (đông-bắc), sẽ có nhiều bệnh và nạn đao-binh.
Nếu sấm động ở hướng khảm (bắc), năm ấy sẽ mưa nhiều.
Tại nơi đang hành-binh, nếu quân đang sợ-hãi thì lúc nghe sấm sẽ thua lớn; nếu nghe sấm trước rồi mới sợ hãi sau, quân sẽ bi chấn-động và kiếm chỗ ẩn-núp.

5. PHÉP NGHE SẤM NGÀY NGUYÊN ĐÁN:
Tiếng sấm hòa-nhã thì thiên hạ an-ổn và được mùa.
Nếu ánh chớp chói mắt, sấm nổ điếc tai thì thiên-hạ sẽ rối-loạn, nên lo gấp việc binh-bị, thấy điều ấy chẳng khá khinh-thường.
Sấm-sét là do âm-dương biến-chuyển và cảm-ứng nhau mà sinh ra.
Tướng đang hành binh, nếu sấm nổ đằng sau lưng thì binh sẽ gặp nhiều điều tốt lợi ; nếu sấm nổ ở trước mặt thì binh sẽ gặp điều xấu lắm.
Nếu sấm nổ trước rồi mới thấy sét đánh thì tiểu nhân thịnh mà quân-tử suy; nếu thấy sét đánh trước rồi mới nghe sấm thì quân tử thịnh mà tiểu-nhơn suy.
Sấm thuộc âm, sét thuộc dương.
Tháng giữa xuân (tháng hai) sấm bèn phát, tháng giữa thu (tháng tám) sấm bèn ẩn, nếu nghịch thời sẽ có việc đao binh nổi lên.

6. PHÉP XEM HƯỚNG GIÓ THỔI LÊN TRỜI HAY XUỐNG ĐẤT:
Gió từ hướng khảm (bắc) – thổi lại gọi là hắc-tuyền-phong (gió suối đen): năm ấy không có nạn đao-binh, nhân dân bị bệnh-tật và giữa năm chết về bệnh ôn dịch.
Gió từ hướng cấn (đông-bắc) thổi lại gọi là huỳnh-tuyền-phong (gió suối vàng): năm ấy không có việc binh, cọp beo xuống đòng nội làm tổn hại nhân dân.
Gió từ hướng chấn (đông) thổi lại gọi là vọng-nữ-phong (gió gái trông chồng) : năm ấy không có việc binh, sinh~mạng của nhân dân bị nguy-khốn.
Gió từ hướng đoài (tây) thổi lại gọi là kim-liên-phong (gió sen vàng) : năm ấy không cô việc binh, gái phạm vào tâm tư của trai, dân.chúng bị chết về bệnh ngặt.
Gió từ hướng ly (nam) thổi lại gọi là hỏa-huyết-phong (gió máu lửa) : năm ấy nắng lâu không mưa, có nạn đao-binh.
Gió từ hướng khôn (tây-nam) thổi lại gọi là thai-bệnh-phong (gió bệnh thai nghén) : năm ấy không có việc binh, đàn-bà nhiều người chết vì sinh-đẻ.
Gió từ hướng càn (tây bắc) thổi lại gọi là tang-phục-phong (gió tang-phục) : năm ấy người người chét gấp, có dân nổi loạn.
Nếu hành-quân tới trận, gặp năm tuổi của tướng-súy, gió từ hướng sao Thái-tuế thổi lại gọi là đại sát phong (gió giết nhiều) thì tai-hoạ đang đến gấp.

7. PHÉP BÍ MẬT DẠY CÁCH XEM GIÓ TÁM HƯỚNG:
* Thứ nhứt: Gió dữ sắc đỏ: Nếu trong nưởc có hiền thần bị tù-tội, thì người ấy thình-lình thấy sắc đỏ hiện lên khắp mặt.
Bỗng dưng trời đất biến ra hồng
Hiền-sĩ bất ngờ vuớng ngục gông
Kỳ-hạn không ngoài trăm ngày tới
Nước chia hai xứ quyết tranh hùng
* Thứ hai: Gió bắc sắc vàng: nhìn không thấy người, ắt có trung-thần bị tội chết : gió từ hướng bắc thình-lình thổi tới làm cát bụi sắc vàng tung bay là đó vậy:
Bỗng dưng trời đất biến ra vàng,
Tất có trung thần phải chết oan,
Hạn tới không ngoài ba tuần nhật,
Bốn phương yêu quái khởi làm càn.
* Thứ ba: Gió sắc đen: Hoặc ban đêm hoặc ban ngày, trời quang tạnh mà mặt trời, mặt trăng và các sao vẫn không sáng, gió ấy bỗng thổi đến làm cho trời đất u ám; trong vòng 300 ngày (10 tháng) sẽ có mọi-rợ miền nam và miền đông xâm-lấn biên giới.
Gió đen bỗng thổi giũa trời quang
Trời đất sao trăng phải tối-tăm
Trăm ngày chưa tới là kỳ-hạn
Man ải ắt khởi cuộc xâm lăng!
* Thứ tư: Gió giết giặc: (sát tặc phong): Hoặc tại bản-dinh hoặc ở giữa trận, gió làm cho nhành reo, cây gãy, chốc chốc lại thổi, phầng kè ngày đêm, mỗi ngày đi được ba mươi dặm.
Giữa trận tùy thời ta hay theo
Nhành rung cây gãy, gió kêu gào
Ba quân gấp tiến theo chiều gió,
Gặp thời giao-chiến, lập công nhiều !
* Thứ năm: Gió dữ thừa lệnh quỷ-thần (thần lệnh ác-phong) : Bỗng thấy gió ẩy uyển~chuyển thồi tới luôn cả ngày đêm.
Giữa ngày bỗng nổi gió thần-phong,
Nhổ trại, cầm thương tất gặp hung,
Trước đường khòng quá muời dặm đất,
Phải phòng bên địch phục binh-hùng !
*Thứ sáu: Gió làm bại binh: (Bại binh-phong): Hoặc mau hoặc chậm, thồi ngược tới trước mặt ta, chốc chốc lại thổi, trận này kbó định:
Dàn binh bỗng thay gió bại binh,
Rát mặt bụi mù gió lớn kinh.
Ba quân truyền lệnh lui binh-mã
Giao-chiến thời này ắt hại mình!
*Thứ bảy: Gió nóng ác hại (ác-noãn-phong): Gió nóng như lửa xuyên qua người, đang yên-ồn bỗng nổi lên, về mùa đông cũng chảy mồ-hôi, trong bụng hơi nóng trong vòng trăm ngày thiên-hạ sẽ đổ máu.
Bỗng trận cuồng-phong thổi nướng người
Nóng ran sĩ tốt đẫm mồ hôi
Trăm ngày chưa tói, phòng đánh lớn
Máu đổ xương rơi ắt loạn rồi !
* Thứ tám: Gió mưa ác hại (Thủy-ác-phong) : Gió phá-hoại tới ruột xương người đang yên-lặng bỗng gió thổi tới vùn vụt, lạnh buốt như sương tuyết, sĩ-tốt không mở mắt ra được Binh-mã phải giải-tán, chắc-chắn sẽ thua.
Lạnh thấu ruột xương, ấy thủy-phong,
Thuyền, cầu thủy trận cũng toi công,
Ba quân truyện lệnh không nhìn rõ
Binh phục bên đường. phải khá phòng.

8. PHÉP XEM GIÓ LÀNH:
Khi có gió lành (báo điềm lành) thì ngày trong sáng, hơi gió hòa-nhã ; theo phần ngày nào, phần tháng nào, phần giờ nào, hoặc theo phương sinh-khí nào mà tới thì lòng người vui đẹp, nước được điều tốt lành.
Về ngày, âm đương là điều bí-yếu: các ngày giáp, bính, mậu, canh, nhâm thuộc về hướng phần dương ; các ngày ất, binh, kỷ tân, quí thuộc về hướng phần âm. Hướng quí là hướng dương.

9. PHÉP XEM GIÓ DỮ:
Khi có gió báo nạn dữ thổi tới, thì ngày đó nặng nề u-ám, khí trời tối-tăm, bế-tắc, tiếng gió gào thét như là giận-dữ, cát bay lá rụng, gió theo phương dữ mà thổi đến. Nên gấp lo việc binh-bị để giữ kỹ, thế nào cũng có giặc tới.

10. PHÉP BÍ MẬT XEM CHÍN THỨC MÂY:
* Thứ nhất: Trời có sắc xanh biển: Trời mờ-mit, hỗn-độn, xanh thẩm, thấy mặt người cũng có màu xanh ắt là giặc tây nhung xâm-phạm biên-giới, nước trung-ương chẳng được yên-ổn:
Thứ nhút, trời xanh thẩm lạ-lùng
Đế Vương lên điện hỏi Chu-Công,
Hiện ra điềm ấy chừngh nủa tháng,
Biên-cương ắt phạm giặc Tây-Nhung.
* Thứ nhì: Trời có sắc hồng: Điềm này chủ về việc đại-tướng, hiền-than bị tù hãm, đang yên-ổn mà bỗng đựng sinh ra như vậy Khi sắc hồng ấy hiện ra thì trung-thần bi chết oan.
Tự-nhiên trời đất biến ra hồng,
Hiền-sĩ không ngờ vướng ngục gông,
Ví bằng chẳng có cuồng-phong khởi
Trăm ngày hai nước cũng giao-phong
* Thứ ba: Trời có sắc vàng: Trung-thần, mưu-sĩ bị chết oan. Nếu dùng chín người để xem-xét sắc trời ấy thì mọi người đều nhận ngay là màu vàng.
Đang yên, tròi đất biến ra vàng,
Ắt có trung-thần phải chết oan,
Máu lan đầy đất trong muời tháng,
Yên, Tần, yêu-quái khởi làm càn.
* Thứ tư: Trời có sắc đen: Điềm này chủ về việc trong vòng ba trăm ngày sắp tới sẽ có kẻ . âm-mưu làm loạn. Bấy giờ sắc trời u-ám.
Đang yên, trời đất biến đen sì
Ắt có kẻ nao mưu loạn chi
Một tháng mà thôi, cơn loạn lạc
Tự -nhiên dập tắt chớ hồ nghi .
* Thứ năm: Trời làm sợ hãi vô cớ (sợ hụt): Trời phát ra tiếng nổ như sấm, bay ra vang dội tới ngàn dặm. Tự-nhiên trời đang quang-đãng mà sinh ra như vậy.
Cây có điều hòa lặng-lẽ bao
Tiếng vang như sấm tự trời cao
Kinh-hoảng không quá ba tuần nhựt
Bốn phương cùng khởì việc binh-đao.
* Thứ sáu: Trời mở cửa: Nghe tiếng động lan ra giống như tiếng trời mở cửa. Bậc đế-vương đăng đàn bái tướng, trong một trăm ngày lệnh chúa hưng vượng, bèn trước hết dấy binh dẹp luạn. Nếu trong một tuần nhật, cửa trời mở về phương Ngọc-nữ thì có tiếng nổ như sấm nhưng không phải sấm.
Một tuần vang dội tiếng nghiêm thanh,
Ngọc-nữ phương trời cửa mở nhanh
Tiếng vọng xuống trần nghe ngỡ sấm.
Trăm ngày chưa tới ắt ra binh,
Bỗng dưng phá giặc ngoài biên-cảnh,
Hưng lệnh trời ban xuống nước mình, .
Để khiến ba quân tùy tướng lệnh,
Vua bèn bái tướng mới xuất-chinh.
* Thứ bảy: Trời thòng binh khí: Khí mây thòng xuống ở chân trời, như là dao cưa. Nên gấp tiến binh, đánh thì thắng lớn.
Mây trời hình:dạng giống cưa dao,
Thòng xuống chân trời, giặc bại mau
Hướng ấy tuớng binh cùng quyết chiến,
Bốn phuơng tám sớ tất hàng đầu.
* Thứ tám: Khí trời không điều hòa: Bốn mùa đều trái thời-tiết:
Hè làm tiết đông, bắc-phiên phản,
Đông làm tiết hè, ắt chinh nam,
Thu làm tiết xuân, giặc đông dậy,
Xuân làm tiết rhu, giặc tây tràn.
* Thứ chín: Trời sinh biến ở hướng càn: Chủ về việc hiền-thần khó trách luận để nhà Vua nghe theo. Mặt trời và mặt trăng khi sắp lặn còn cao một trượng thì có sắc đỏ.
Nhật nguyệt máu hườm, biến sắc đây
Âm dương có biến, chủ không hay
Tư-thiên rõ việc, bàn sai quấy,
Ngoài cuộc nói vào xét chẳng sai.

11. PHÉP XEM HAI MẶT TRỜI MỌC KỀ NHAU:
Hai mặt trời cùng mọc thì thiên-hạ sẽ động binh, kẻ vô-đạo bị tiêu diệt, hai quân đánh nhau có sức mạnh ngang nhau.
Hai mặt trời cùng mọc thì sẽ có đánh lớn, thành-trì bị phá-hoại, đồng nội chia ra nhiều phần mà đánh nhau.
Hai mặt trời mọc kề nhau ở nước nào thì nước ấy gặp loạn lớn, nạn dữ .
Chất tinh trắng của mặt trời rơi xuống đất xứ nào thì ở xứ ấy bên chủ (quốc-vương, chánh-phủ) phải thất-bại.
Dưới mặt trời có ánh-sáng giống như chân chim thì xứ bên phe chủ bị tai-ương, việc binh thất-bại, quân-đội tiêu-diệt.
Trong mặt trời có vết đen thì vua tôi chống đối nhau, trăm họ gặp việc xấu.

12. PHÉP XEM CÁC LOẠI NHẬT-THỰC:
Dùng phép Hà-Đồ mà xem mặt trời.
Các trường hợp nhật thực đều do ở ngày hối (cuối tháng) và ngày sóc (đầu tháng) mà sinh ra nhật thực ; âm dương xâm lấn nhau, đi lạc đường tới ôm nhau, đô gọi là nhật-thực.
Nếu ở nơi có nhật-thực, có quan đại-thần âm-mưu làm hại nhà Vua, ắt là mặt trăng đi ngược án trước mặt trời : thiên-hạ sẽ dấy loạn.
Mặt trời mới mọc hai sào rồi bỗng dưng không sáng nữa đó gọi là mặt trời bệnh. Mặt trời sắp lặn ở phương tây, còn cao hai sào, bỗng dưng không sáng nữa, đó gọi là mặt trời chết.Trong địa phận nước ấy, bậc vương hầu gặp nạn lớn, các gian-thần đều nổi lên khuấy rối.
Nếu mặt trờí đỏ như máu thì tbiên-hạ sẽ có loạn lớn.
Mặt trời mới mọc mà bị ăn thì sẽ thua binh, mất thành.
Từ giờ ngọ trở về sau mà mặt trời bị ăn thì binh-gia nghỉ việc giao chiến.
Vào tháng tám mùa thu mà có nhật thực thì. có việc đao-binh xảy ra và phe khách được thắng.
Vào tháng mười hai mà có nhật-thực, điều ấy chủ về việc có binh dấy loạn.
Khi nhật-thực mà mặt trời bị ăn hết thì rợ man (phía nam) và rợ di (phía đông) nổii loạn, nên gấp lo việc binh-bị
Nguyệt thực xảy ra vào những ngày giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ thì sẽ có việc đao-binh.
Nguyệt-thực xảy ra vào những ngày canh, tân, nhâm, quí thì không nên tính tới việc binh.

13. BÀI THƠ MẶT TRĂNG LẠC ĐƯỜNG:
Trăng lạc giữa trời, chúa chẳng hay
Hậu-cung say đắm may nàng phi,
Ba tuần chưa tới binh liền dấy
Âm dương sai lạc khiến vong nguy.

14. PHÉP BÍ-MẬT XEM TRĂNG:
Mặt trăng mới mọc ma đi về hưởng bắc đó gọi là “cung giương” thì có kẻ âm-mưu vào thành khuấy rối.
Nếu mặt trăng mới mọc mà có đám mây đen chắn ngang như chữ nhất thì trong ngày ấy có mưa.
Mặt trăng mới mọc mà có đám mây đen ở giữa có dạng như cầm thú thì:
- nếu vào ngày giáp ất sẽ có hại về hướng đông;
- nếu vào ngày bính đinh sẽ có hại về hướng nam;
- nếu vào ngày mậu kỷ sẽ có hại về nước trung-uơng;
- nếu vào ngày canh tân sẽ có hại về hướng tây;
- nếu vào ngày nhâm quí sẽ có hại về hướng bắc.
Trong mặt trăng có sao lọt vào sẽ thua quân, chết tướng.
Có mây trắng như rắn rít xuyên qua mặt trăng thì sẽ có tướng chết, quân thua.

15. PHÉP BÍ-MÂT XEM TRĂNG TRÒN KHUYẾT:
Mặt trăng giống như tròn nhưng chẳng phải tròn, giống như khuyết nhưng chẳng phải khuyết, lặn mà chẳng lặn, ắt có gian-thần mưu phản.
Mặt trăng giống như tròn mà chẳng phải tròn, bờ trên và bờ dưới đều bị khuyết, mọc tại Phù-tang, lặn tại Phù-tang, đó là điềm loạn-thần làm cho nước nhà bại-vong.

16. PHÉP XEM CÁC LOẠI NGUYỆT-THỰC:
Binh chưa đánh mà đã gặp nguyệt-thực thì đến khi đánh, binh ấy sẽ được thắng lớn.
Binh đang ở trong mà đã gặp nguyệt thực, điều ấy chủ về việc có tai ương.
Mặt trăng đang tròn đầy mà bi ăn, điều ấy chủ về việc binh sẽ bị chết ở đồng nội.
Mặt trăng bị ăn một bên thì tướng súy và bề tôi không còn giữ đạo.
Mặt trăng bị ăn ở phía dưới thì công việc cửa tướng-quân mất phép-tắc, lề-lối.
Nguyệt-thực mà có màu xanh thì ngũ-cốc trở nên quí-báu, híếm-hoi, thiên~hạ đói kém.
Nguyệt-thực mà có mầu đỏ thì lúc khởi đầu lợi cho pbe khách.
Nguyệt-thực mà có màu vàng thì có việc lập chư-hầu thành vương-quốc.
Mặt trăng bị ăn hết thì sẽ có quân thua tướng chết.
Hai mặt trăng cùng mọc thì thiên-hạ có loạn lớn.
Mùa xuân bi ăn về phía đông, mùa hè bị ăn về phía nam,mùa thu bị ăn về phía tây, mùa đông bị ăn về phía bắc thì xứ gặp nguyệt-thực sẽ có điều lo buồn về việc binh.
Mặt trăng đang bị ăn mà mọc lên thì chỗ đóng quân bi tổn hại, lại thêm nữa có sự mất mát đồ-đạc, tướng chết, binh tan.

17. PHÉP XEM MẶT TRỜI VÀ MẶT TRĂNG ĂN NHAU:
Nguyệt-thực xảy ra vào ngày dần, ngày mão, thì lúa rẻ, nhândân chiu thiệt-hại, nên khởi binh trước, lợi chủ mà hại khách.
Nguyệt-thực xảy ra vào ngày ngọ, ngày mùi, điều ấy chủ về việc có trâu ngựa chết, binh dấy loạn tại phía tây đánh về phía đông.
Nguyệt-thực xảy ra vào ngày thân, ngày dậu, trong năm này có khí độc gây ra nhiều bệnh.
Nguyệt-thực xảy ra trong ngày hợi, điều ấy chủ về việc thiếu-thốn ngũ-cốc.
Nguyệt-thực xảy ra vào ngày tý, ngày sửu, điều ấy chủ về việc đói-kém, loạn-lạc.

18. PHÉP BÍ MẬT XEM ÂM DƯƠNG XÂM PHẠM NHAU :
Đường mặt trăng mọc lên và đi theo là:
- thanh-đạo về mùa xuân;
- bạch-đạo về mùa thu;
- xích-đạo về mùa hạ;
- hắc-đạo về mùa đông ;
- huỳnh-đạo trong bốn tháng 3, 6, 9, 12.
Nếu đế-vưong trái đạo thì mặt trời và mặt trăng chạy trái đường, lấn âm, ôm dương, nên gọi là âm dương lấn nhau, thiên-hạ sẽ có loạn lớn.
Nếu mặt trăng và mặt trời cùng đi ngang nhau, tbì có quan đại-thần âm-mưu nổi loạn.
Nếu hai mặt trăng chọi nhau, điều ấy chủ về việc có hai vua tranh thiên hạ.
Nếu mặt trời và mặt trăng chọi nhau điều ấy chủ về việc trong nước có đổ máu, thiên-hạ có loạn lớn.

19. PHÉP BÍ-MẬT XEM ÂM DUƠNG BỐN MÙA:
Mặt trời có sắc trắng thì trong vòng chín ngày có rợ tây nhung xâm-phạm biên-giới.
Mặt trăng có sắc trắng thì hiền-thần bi lao tù. Mặt trời có sắc đỏ thì có âm-mưu dấy loạn trong. nước.
Mặt trăng có sắc đỏ thì loạn âm.
Đây là cách xem nhật nguyệt, âm-dương chậy loạn :
Mặt trời hè không theo nam-đạo, mặt trời đông không theo bắc-đạo thì trong vòng trăm ngày rợ man. (phía nam), rợ di (phía đông) sẽ xâm-phạm biên-giới.
Mặt trăng đi về hướng bắc gọi là mặt trăng trương cung, thì có kẻ âm-mưu vào thành dấy loạn, bên ngoài giặc phiên. sẽ dấy binh xâm-đoạt nước trung-ương.
BINH THƯ YẾU LƯỢC
Trang: [2] 

20. PHÉP BÍ-MẬT XEM SAO THÁI-BẠCH, THẦN-TINH:
Sao mai gọi là Thần-tinh, sao hôm gọi là Thái-Bạch đều là một sao.
Sao Thái-Bạch bi vầng sáng mặt trăng che khuất, điều ấy chủ về việc tướng súy phải chết.
Sao Thái Bạch được mặt trăng chở ở trên, thì trong năm ngày sẽ có dấy binh.
Tháng tám ngày mồng ba, sao Thái.Bạch đi sai đường về phía bắc thì sẽ có binh đánh nhau.
Sao Thái-Bạch đi về phía bắc thì nước nhỏ rối loạn.
Sao Thái-Bạch đi về phía nam thl nước lớn rối loạn.
Sao Thái Bạch ở trong mặt trăng cũng được gọi là nguyệt-thực.
Sao Thái Bạch là điềm xấu của nhà Vua.
Sao Thái-Bạch mọc bên trái mặt trăng thì nước âm rối loạn, mọc bên phải mặt trăng thì nước dương rối loạn.
Sao Thái-Bạch dính liền với mặt trăng thì trong ba năm có việc đao-binh, mất đất.
Sao Thái-Bạch chạy vào mặt trăng thì tướng – quân phải chết.
Sao Thái-Bạch bảy ngày không mọc thí sẽ có nạn đao-binh dữ-dội..
Nếu sao Thái-Bạch lên giữa trời mà sáng ra thl ba quân tan-vỡ, loạn-lạc.
Nếu trên có một đế-tinh và dưới có một cá-tinh thẳng hàng với nhau thì các quan phản Vua.
Nếu sao Thái-Bạch xuất hiện không đúng lúc thì Vua Tôi cùng khởi binh.
Sao Thái-Bạch mờ tối thì chủ-tướng gặp việc xấu.
Sách Cấm-Thư chép rằng : Thái-Bạch Thần-Tinh cùng một ngày mọc lên ở hướng đông, ắt có dấy binh ở hướng đông ; nếu cùng mọc lên ở hướng tây, ắt có binh dấy lên ở hướng tây.
Nếu cùng mọc ở hướng đông mà không gần nhau, từ hai mươi tới ba mươi ngày không lặn vào hướng đông-nam thì có điều binh nhưng không đánh ; đến mùa xuân, mùa hạ sẽ có dấy binh.
Thần-Tinh và Thái-bạch mọc ở hướng đông, gần nhau trong khoảng ba bốn thước thì từ bai mươi tới ba mươi ngày có binh đánh lớn.
Thần-Tinh đi theo Thái-Bạch ở hướng đông thì có dấy binh ở khắp nơi, từ đó đến sáu mươi ngày sẽ có dấy binh ồ-ạt.
Thái-Bạch từ Thần-Tinh đi ra thì lợi chủ.
Nếu mọc ở hướng đông thì lợi cho việc đánh hướng tây,binh ở phía đông được thắng lớn ; nếu mọc ở hướng tây thì lợi cho việc đánh hướng đông, binh ở phía tây được thắng lớn.
Thái-Bạch và Thần-Tinh cùng mọc ở hướng đông; Thái-Bạch mọc trước, Thần-Tinh theo sau rồi vượt qua Thái-Bạch mà đi trước thì xứ ở dưới có binh làm phản, không tới một năm sẽ thấy ứng-nghiệm.
Thần-tinh mọc ra như tờ giấy mà Thái-Bạch chưa mọc thì tướng-quân phải chết; thấy mọc ở nơi nào thì ở nơi ẩy có quân tan, tướng chết.
Thái-Bạch mọc ở hướng đông, Thần-Tinh ở phía trước mà không mọc thì trong vòng năm mươi ngày có âm-binh dấy loạn trong nước.
Thái-Bạch có vầng sáng thì trong thiên-hạ có ân-xá cho kẻ phạm tội.
Thần-Tinh có vầng sáng thì sẽ có dấy binh và mưa lụt.
Vầng sáng của Thái Bạch và Thần-Tinh mà có ánh sáng màu vàng che khuất. thì sẽ có quân tan, tướng chết.

22. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO LÀNH:
Sao Cảnh Tinh là sao đức-tinh. Sao ấy lớn có hình-đạng như nửa mặt trăng hiện ra vào ngày ba mươi, mồng một. Nước nào thấy được sao ấy thì gặp nhiều điều tốt lành.
Sao Chu Tinh có sắc vàng, ánh sáng rực rỡ, nước nào thấy được thì gặp điều tốt lành, ai thấy được thì người ẩy gặp điều tốt lành.
Sao Hàm-Dự sáng như sao Tuệ, nước nào thấy được thì gặp điều vui mừng, rợ man phía nam vào cống-hiến.

23. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO BẮC-ĐẨU:
Bắc-đẩu có sao nhỏ thì thiên-hạ không yên, mọi việc chiến tranh cùng dấy lên.
Bắc đẩu có khí đỏ xâm-nhập, điều ấy chủ về việc quân phải thua lớn, nếu cử binb g~p thì có hại.
Nếu có mây trắng xâm-nhập, điều ấy chỉ về việc đổ máu nhiều.
Nếu có mây như xà-mâu ăn vào, điều ấy chủ về việc có loạn lớn, nên ra ngoài.
Nếu có mây hình-dạmg giống như con heo, điều ấy chủ về việc binh sợ-sệt vô cớ.
Nếu có khí vàng tản-mác ở đông, tây thì không nên dấy binh động chúng.
Nếu có vết đỏ, đầu lợt, đuôi đậm, điều thấy chủ về việc quân được thắng lớn.
Nếu có màu đỏ lạt thì đại thần làm loạn.
Nếu có mây ở phía đông và tây thì phe chủ cử đại-binh, phe khách nên lui về mà giữ.
Nếu có mây đỏ xây thành bốn phía, điều ấy chủ về việc dấy binh lớn.
Nếu hiện ra ban ngày thì xã-tắc không yên, bậc vương*giả gặp tai-biến.
Nếu đang xoay trận mà đêm sau xem lại, thấy sao Bắc-đẩu có mây xuyên vào thì ba mươi ngày sau lại bị một lần lữa.
Nếu đêm mồng một đầu năm có sắc hồng bọc quanh sao Bắc-đẩu, thì hai mươi ngày sau sẽ có tướng chết quân bại.

24.- PHÉP BÍ MẬT XEM SAO KHÁCH:
Các sách Thiên-văn đều nói: Chẳng phải thường được thấy mà tình-cờ mới thấy được sao ấy trên trời, thì đó là sứ-giả của Thiên-Tinh Đại-đế: sao ấy là then chốt của bí thuật xem điềm tốt xấu.
Hoặc mọc ở hướng tây, hoặc nằm ở hướng đông. Nếu thấy sao ấy trong nhiều ngày thì có vỉệc to tát xảy ra mà lại có họa lớn; nếu chỉ thấy sao ấy trong ít ngày thì có việc xảy ra nhưng không quan-trọng lắm mà tai-họa chỉ nhỏ nhẹ mà thôi.
Hoặc hình-dạng biến ra sừng nhọn ắt là có âm-mưu gây loạn; nếu sắc của nó mờ lạt, ắt là có binh nổi loạn.
Nếu có sao (nhỏ) mà thấy nó có sắc trắng thì sẽ có việc binh-đao xảy ra trong địa-phận của nó ; nếu sao ấy có ánh-sáng như gai nhọn thi xứ ở đỉnh bị quân tan, tướng chết, bị giặc lấn đất, đoạt ấp, thiên-hạ loạn lớn.
Hễ hằng ngày thấy sao ấy trên trời, không đúng vào giờ khắc nào cả, thì sao ấy gọi là sao khách.

25. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO CHỔI:
Ngày xưa kinh của họ Sở nói rằng: Sao Tuệ gọi là sao chổi, hoặc dài vài thước, hoặc dài một trăm thước, sao ấy hiện ra ắt có dấy binh.
Khi nhà Vua sắp gặp tai-họa mà sao chổi hiện ra, nếu sao ấy chỉ về hướng nào thì đánh thắng về hướng ẩy, chỉ vào ta thì ta gặp điềm xấu, chỉ vào người thì người chịu thất-bại, đều phải phân-biệt đia-phận mà đoán.
Sao chổi dài ba trượng thì việc xấu kẻo dài một năm, dài bốn trượng trở lên thì việc xấu kéo dài ba năm, dài một trăm năm mươi trượng trở lên thì việc xấu kéo dài bảy năm.
Sao chổi hiện ra ắt là nước địch chịu việc binh-biến. Sao chổi lớn thì tai-họa lớn, sao chổi nhỏ thì tai-họa nhỏ , đuôi sao chổi mà cong giống như lá cờ thì nhà Vua đẹp giặc bình-định bốn phương.


26. – PHÉP XEM CHUNG NĂM SAO :
1) Sao Tuế Tinh có ý nghĩa là hướng đông, là mùa xuân, là hành mộc, là đức nhân trong năm đức thường của con người (nhân, nghĩa, lễ trí, tín), là vẻ mặt trong năm việc (mạo, ngôn, thị, thính, tư). Đức nhân mà thiếu sót, vẻ mặt mà hư hỏng, thời tiết mùa xuân mà bị trái ngược, khí mộc mà bị tổn thương, ắt sẽ thấy sự trừng phạt.
Sao Tuế-Tinh là chủ đầu tiên của phước may.
Về mùa xuân, được gọi là Nhiếp-Đề;
Về mùa hạ, được gọi là Trùng-Hoa;
Về mùa thu, được gọi là Ứng-Tinh;
Về mùa đông, được gọi là Kỷ-Tinh.
Sao Tuệ-Tinh tượng trưng cho bậc có đức, muốn được thấm nhuần sự sáng suốt của người ấy. Bậc Vua của loài người mà có đức ắt là Tuế-Tinh tới lui cùng thời với nhà Vua, nước ấy được phước may, không thể đánh nước ấy được. Bậc chúa loài người mà không có đức, ham thích việc chiến tranh, thì Tuế tinh cũng theo đó mà mờ tối, đổi màu làm cho tước vị bị tù hãm thất thường; nếu nhân đó tai ương xảy ra thì nước nhà sẽ gặp việc xấu … (*), điều ấy chủ về trong năm ấy, ngũ cốc và người sinh ra nhiều, nhà Vua sẽ trông nom đạo làm người ở khắp các nước chư hầu trong thiên hạ.
Tuế Tinh ở vào nước nào, thì nước ấy được đức dầy, ngũ cốc tươi tốt, bậc chúa loài người sống lâu và gặp điều tốt lành.
Nếu phước may xung khắc với Tuế Tinh thì có tai họa.
Tuế Tinh ở yên ở các trung độ thì tốt lành; nếu mờ tỏ không chừng thì nước ấy có việc lo buồn, không thể bày việc và dùng binh.
2) Sao Oanh-Cảm-Tinh có ý nghĩa là hướng nam, là mùa hạ, là hành hỏa, là đức lễ (trong ngũ thường), là sự thấy. Lễ nghi và sự thấy mà thiếu sót, thời tiết mùa hạ mà bị trái ngược, khí hỏa mà bị thương tổn, ắt là sẽ thấy sự trừng phạt.
Sao ấy khiến cho công việc sai phép tắc, đi ra thì mất lửa, đi vào thì binh tàn, tan rã ở đất khách, nước nhà phải rối loạn. Sao ấy gây ra giặc giã, bệnh tật, chết chóc, đói kém, sao ấy ở đâu thì ở đó phải chịu tai ương. Nếu vành bọc quanh sao dao động, đổi màu và làm trở lại như thế, khi thì ở trước ở sau, khi thì bên trái bên phải, nước ấy càng chịu tai ương nhiều hơn.
(*) Không nhận ra chữ nên không dịch được.
3) Sao Trấn Tinh có ý nghĩa là trung-ương, là bốn tháng 3, 6, 9, 12, là hành thổ, là đức tín. Bốn đức nhân, nghĩa, lễ, trí đều lấy đức tín làm chủ. Vẻ mặt, lời nói, sự thấy, sự nghe đều lấy tư duy làm chủ. Bốn vị sao kia (Tuế-Tinh, Oanh-Cảm-Tinh, Thái-Bạch, Thần-Tinh) đều mất đức tín nên báo điềm nước sẽ biến động, ắt bậc vương hầu không bình yên.
Sao Trấn-Tinh mà lu mờ, ắt là việc binh bất lợi.
Sao ấy ở nước nào thì ở nước ấy được điều tốt lành.
Sao ấy nằm vào được chỗ tốt thì đàn bà con gái được phước may, không thể đánh nước ấy được. Sao ấy không nằm được chỗ tốt thì đàn bà, con gái có điều lo buồn.
Sao ấy ở yên không dời chỗ thì nước ấy có việc lo buồn.
4) Sao Thái Bạch có ý nghĩa là hướng tây, là mùa thu, là hành kim, là đức nghĩa, là lời nói. Trong năm việc (mạo, ngôn, thị, thính, tư), lời nói mà bị sai lầm, thời tiết mùa thu mà bị trái ngược, khí kim mà bị tổn thương, ắt là sẽ thấy sự trừng phạt.
Nhìn cách sao Thái-Bạch lui tới để xem về việc binh; sao ở cao hay thấp, đi chậm hay mau, yên tịnh hay rối loạn, mọc hay lặn đều tượng trưng cho phép dùng binh.
Nếu nói về điềm xấu, khi sao ấy mọc ở hướng tây mà đi sai lạc thì rợ di (phía đông) và rợ địch (phía bắc) sẽ bị thất bại; nếu mọc ở hướng đông mà đi sai lạc thì nước trung ương sẽ bị thất bại; nếu chạy dọc trên trời (theo phương nam-bắc), đó gọi là rối loạn kỷ cương thì bậc vua chúa loài người phải chịu lưu vong; nếu ban ngày thấy sao ấy tranh sáng với mặt trời thì nước nhỏ mạnh, nước lớn yếu.
5) Sao Thần-Tinh có ý nghĩa là hướng bắc, là mùa đông, là hành thủy, là đức trí, là sự nghe. Đức trí và sự nghe mà thiếu sót, thời tiết mùa đông mà bị trái ngược, khí thủy mà bị tổn thương, ắt là sẽ thấy sự trừng phạt.
Sao Thần-Tinh chủ về sự giết chóc, là khí sát phạt, là sao tượng trưng cho sự chiến đấu, quân đội ắt là bị hãm ở đồng nội.
Sao Thần-Tinh tượng trưng cho sự phòng bị của tướng súy; tướng tay không chẳng có quân lữ, đó là hình phạt dành cho tướng súy.

26. PHEP BÍ MẬT XEM SAO BĂNG :
Sao băng là sứ giả của Trời, từ trên rơi xuống gọi là lưu-tinh, từ dưới chạy lên gọi là phi-tinh, sao lớn gọi là bôn-tinh, tất cả cũng đều là lưu tinh cả.
Sao lớn thì có sứ mạng lớn, sao nhỏ thì có sứ mạng nhỏ. Nếu có nghe tiếng kêu, đó là tượng trưng cho sự giận dữ. Nếu chạy mau thì kỳ hạn đến gấp rút, nếu đi chậm thì kỳ hạn còn lâu.
Nếu sao lớn mà không sáng, đó là việc của dân chúng; sao nhỏ mà sáng đó là việc của người tôn quí. Nếu sao khi ẩn khi hiện đó là công việc có thành có bại. Nếu sao trước lớn mà sau nhỏ thì có điều lo sợ; nếu sao trước nhỏ sau lớn thì có việc vui mừng.
Nếu sao chạy ngung ngăng như con rắn thì có kẻ âm mưu làm việc gian tà. Nếu sao chạy băng qua mau, băng qua mà không kịp tới (rớt), đường băng dài thì việc lâu dài và quan trọng; đường băng ngắn thì việc mau chóng và không quan trọng. Sao băng rơi xuống nơi nào thì dưới nơi ấy có việc binh đao. Sao băng di chuyển mà bị ngăn trở thì có mưu sự xảy ra.
Về sao băng, hãy xét ngày giờ, xem sao ở địa phận nào để mà luận :
- Màu xanh tượng trưng việc lo buồn, đói kém.
- Màu đỏ tượng trưng việc đao binh, khô hạn.
- Màu vàng tượng trưng việc vui mừng, việc sửa sang đất nước.
- Màu trắng tượng trưng việc đao binh, hình phạt.
- Màu đen tượng trưng bệnh tật, bệnh dịch, chết chóc, hỏa tai.
Khi sao băng có ánh sáng giống như tấm vải, nếu là màu xanh thì có sứ các nước tới viếng, nếu là màu đỏ thì có việc đao binh, nếu là màu đen thì có việc chết chóc.
Nếu sao băng rất lớn, ánh sáng chiếu xuống đất, màu xanh và mào đỏ túa ra bốn bên thì ngũ cốc mất mùa.
Sao băng phạm vào mặt trăng hay triền mặt trăng mà ánh sáng đỏ hướng về phía mặt trăng thì thiên hạ không yên ổn.
Khi gặp lưu tinh và bôn tinh, nếu dấy binh sẽ thắng trận.

28.- PHÉP BÍ MẬT XEM SAO YÊU QUÁI:
1) Sao Thiên-Ngô: Cũng có tên là Giác-Tinh, vốn thuộc về sao Tuệ-tinh (sao chổi) nhọn dài bốn thước. Nếu mọc ở hướng đông-bắc, thì chủ về việc tranh đoạt. Nếu sao tuệ (chổi) mọc ở hướng đông thì có tên là Thiên-Cách thì nước ấy không thể cử sự, nếu dùng binh thì phải mất thành. Sao Thiên-Ngô dài hơn bốn thước thì chủ về việc yêu quái nổi lên khuấy phá.
2) Sao Xi-Vưu-Kỳ (giống cờ giặc Xi-Vưu đời vua Huỳnh Đế). Giống loại sao Tuệ (chổi) nhưng có đuôi cong như hình lá cờ. Hoặc hiện ra một mình giống như một đám mây đỏ, sắc của nó trên đỏ dưới trắng, sao ấy hiện ra ở hướng nào thì ở hướng ấy có binh dấy loạn. Sao Xi-Vưu-Kỳ mọc ra, chủ về việc đánh dẹp bốn phương. Lại có nói sao Xi-Vưu-Kỳ thuộc loại sao Oanh-Cảm, nhờ có khí đỏ bồi đắp mà trở nên to lớn, sắc của nó chiếu ánh sáng xuống đất, tên của nó là cờ Xi-Vưu, chủ về việc binh dữ dấy loạn, rợ man (nam) và rợ di (đông) xâm phạm biên giới.
3) Sao Nguyệt-Hoàng: Hình nó lớn và có sắc đỏ, ở cách mặt đất chừng ba trượng giống như bó đuốc, chủ về việc bên trong có giặc giã, tai nạn, nơi nào thấy sao ấy thì có dấy binh, trong và ngoài đều gặp nạn đao binh.
4) Sao Chiếu-Minh: Hình lớn mà không có sừng nhọn, khi thì lên cao khi thì xuống thấp, nước nào thấy sao ấy hiện ra thì chịu nạn đao binh. Sao Chiếu-Minh có hình dài 3 thước, lại có thêm 3 sao ở trên, đó là loại sao Oanh-Cảm.
5) Sao Tư-Nguy: Có hình dạng như sao Thái-Bạch, có 2 mũi nhọn như hai cái đuôi, mọc ở hướng tây, cách xa mặt đất sáu thước và có sắc trắng, đó gọi là sao Tư-Nguy. Sao mọc ở hướng nào thì ở nơi ấy việc hành binh của phe chủ không được thuận lợi.
6) Sao Thiên-Sàm: Mọc ở hướng tây, giống như một cây kiếm dài bốn, năm trượng, có tên là Thiên-Sàm. Sao ấy mọc ở nơi nào thì ở nơi ấy có dấy binh, nước nào thấy sao ấy thì có loạn lớn.
7) Sao Ngũ-Tàn : Mọc ra ở hướng đông, cách mặt đất chừng ba đến bảy thước, giống như mũi thương chĩa ra nên gọi là tàn, như có mũi nhọn dài ló ra. Ngũ-Tàn có nghĩa là chia ra năm phần. Nơi nào có sao ấy thì phải chịu nạn hủy hoại, bại vong. Lại có nói sao ấy giống như lửa có màu đỏ hoặc màu xanh. Sao Ngũ-Tàn xuất hiện ở nơi nào thì ở nơi ấy có nạn binh đao, nhà tan nước mất.
8) Sao Trường-Canh: Giống như tấm vải dính vào da trời, nơi nào thấy sao ấy thì có dấy binh gây loạn.
9) Sao Thiên-Tặc: Mọc ra ở hướng nam, so ấy lên cách mặt đất sáu thước và có màu đỏ, dao động mà chiếu sáng, đó gọi là sao Thiên-Tặc. Nó mọc ở hướng nào thì dưới hướng ấy có dấy binh gây loạn, đất ấy phải bại vong.
10) Sao Cuồng-Thỉ: Giống như sao băng có hình mũi tên, màu xanh đen, đi như con rắn, trông như có sừng, dài chừng vài thước. Thấy nó ắt là có binh mưu phản nhân cơn loạn mà gây loạn. Lại có nói rằng khi gặp sao Cuồng-Thỉ thì quân sĩ sinh ra nhát sợ, binh Tần phải thua, Hạng Vũ chấp chánh. Nơi nào thấy sao Cuồng-Thỉ xẹt xuống hướng tây thì đó làm điềm diệt vong.
11) Sao Thiên-Cẩu: Hình dạng của nó giống như chó chạy, có sắc đen vàng và có tiếng kêu, phía trên giống như con chó. Sao ấy rơi vào xứ nào thì xứ ấy trông như có ánh lửa rực rỡ xông lên trời, trên nhọn, dưới tròn mà nghiêng về một bên, giống như sao Điền-Tinh mà có lông, một bên có sao chổi ngắn, phía dưới có sao Cẩu-Tinh mọc ra có ánh sáng màu đỏ, trắng, tức đó là sao Thiên-Cẩu. Lại có nói rằng sao băng có ánh sáng, thấy rơi xuống mà phát ra tiếng kêu, có chưn (*) màu trắng, ở giữa màu vàng giống như hình con chó, chủ về việc có dấy binh, giặc tới phá quân giết tướng, đổ máu ngàn dặm. Nó có một tên thứ nhất là Lưu-Tinh, một tên thứ hai là Doanh-Đầu-Tinh, đó cũng là sao Thiên-Cẩu.
(*) Nguyên văn.

29.- PHÉP BÍ MẬT LUẬN VỀ TÁM SAO YÊU QUÁI :
Sách Binh-Pháp nói rằng: Thần nhân ban cho sách lạ về sao yêu quái, thế gian thường chẳng được thấy. Nếu lại sao ấy hiện ra thì không thể không xem xét; nước nào có sao ấy hiện ra thì quan Tư Thiên Giám phải quan sát kỹ. Theo phép này nếu sao đeo theo mây mà xuất hiện thì rất khó mà đo lường.
- Thứ nhất: Mao-Đầu-Tinh: Hình của nó dài như măng tre.
Giữa ngày so hiện giống đầu lông,
Nước chủ đang yên bỗng bận lòng
Sao hiện không đầy ba tuần nhật,
Nước sinh tai biến phải long đong!
- Thứ hai: Đới-Tinh: Sao ấy dài thẳng một đường, trên dài ba phân, dưới dài một phân.
Treo kiếm bên trời, ấy tướng quân,
Đới ra nhất định dấy đao binh,
Ban ngày sao hiện, binh nên tiến,
Thấy ở nơi nào, ấy giặc sanh!
- Thứ ba: Thương-Ngân-Tinh: Khí của nó hợp thành một đường đâm xuyên qua mình nó và chui qua thẳng.
Sao cặp một đường ngó giống thương,
Xuyên hẳn qua sao thật lạ thường,
Hiện ra không quá ba tuần nhật,
Binh dấy đồng thời khắp bốn phương.
- Thứ tư: Trương-Cung-Tinh: Nó dài một đường như hình cung giương.
Hình sao trông giống chiếc cung giương
Chủ tướng tới lui phải hiểu thông
Sao hiện trước nhà binh dấy động,
Hưng binh đánh trước mới thành công!
- Thứ năm: Thần-Xoa-Tinh: Trên có ba đường, dưới có một đường.
Thấy được Thần-Xoa thật ít khi,
Gặp thời sao hiện, chủ thiên di,
Hiện ra không quá trăm ngày chẵn,
Máu chảy tràn trề, nước loạn ly!
- Thứ sáu: Trường-Canh-Tinh: Có hình như sợi tơ thòng xuống, có khí trắng.
Một làn khí trắng giống đường thương,
Sao hiện nơi nào, đấy nhiễu nhương,
Giữa ngày sao hiện như mây lụa,
Nước phải kinh hoàng chịu họa ương.
- Thứ bảy: Phao-Giáng-Tinh: Có đám mây giống như đầu người.
Hình mây trông chẳng khác đầu lâu,
Sao hiện nơi nào chúa phải sầu,
Hiện ra chẳng đợi qua hai tháng,
Ma quỷ hại người, đổ máu nhiều.
- Thứ tám: Đảm-Kỳ-Tinh: Giống như mây, dài như lá cờ trương ra.
Sao yêu xuất hiện trải cờ ra,
Biên ải man di quấy nhiễu ta,
Hiện ra chẳng quá ba tuần nhật,
Thây chết đầy đồng, ngửi thối tha.

30.- PHÉP XEM SAO YÊU QUÁI HIỆN RA BAN NGÀY :
Sao hiện ra ban ngày, hình giống như cây cối, chủ về việc có đao binh và đổ máu.
Nếu ban ngày có hai sao hiện ra thì thiên hạ sẽ đổi đời.
Nếu ba sao hiện ra thì rợ di (phía đông) và rợ địch (phía bắc) xâm phạm biên giới.
Bốn sao hiện ra thì vua tôi âm mưu dấy loạn.
Năm sao hiện ra thì nước ngoài xâm đoạt nước trung ương.
Một sao hiện ra vào tháng tám ban ngày thì nên phòng ngừa kẻ gian tà mưu sự. Nếu sao xẹt một bên thì chủ về việc có đánh lớn, đổ máu. Nếu sao quay đuôi lại, xẹt xuống một bên thì chủ về việc mất nước.

31. – PHÉP XEM TƯỢNG TRỜI KHI HÀNH QUÂN :
A. Một là khi gặp trời đất tối tăm, sương mù mờ mịt, gió tung cát bụi, cờ xí không thấy rõ, chiêng trống nghe không được, thì không thể xuất binh. Nếu có giặc thừa lúc tối tăm ấy kéo kỵ binh kiêu dũng, dời quân đến đánh ta thì ta ắt phải dặn dò đôi ba phen, ước thúc ba quân, giữ kỹ dinh trận, không cho loạn động, chỉ dùng các vật ngăn chận, bia, phên để đón đỡ tên và đá bắn tới, dùng cung mạnh nỏ cứng ngồi nấp mà bắn giặc. Ta chờ đến khi giặc giải đãi thì thừa dịp bên địch tối tăm hỗn loạn, ta xua sĩ tốt mạnh dạn lén đi ra mặt sau quân địch để chận ngang đường rút lui cùng các chỗ hiểm yếu, bấy giờ ta đánh thì có thể bắt được chúng.
B. Một là khi gặp trời đất mưa gió tối tăm,, sương mù mờ mịt tất cả bốn phía, thì không thể tiến binh, cũng không thể dời trại, vậy nên giữ kỹ dinh trại, để phòng ngừa sĩ tốt biến loạn hoặc giặc ở ngoài tới đánh.
C. Một là khi gặp gió to, mua lớn, lạnh nhiều, nắng gắt, không thể ra binh đánh dẹp, vậy nên vỗ về giúp đỡ quân sĩ, giữ vững dinh trại, tất nhiên giặc cũng không thể ra binh. Nếu binh ta đi đường mà thình lình gặp giặc thì nên lập gấp dinh trận để chờ khi trời tối và chờ lúc thế giặc suy giảm. Bấy giờ ta gắng thìm phương sách hay, xét thời trời, thăm dò chỗ sơ hở của địch.
D. Một là gặp khi tuyết đổ mờ mịt, trong vòng trăm bước không thấy người ngựa, trong trường hợp ấy thường thường giặc đặt kỳ binh nấp ở nơi hiểm ải để chờ đánh ta vào lúc vô ý. Nếu ta ra quân đối ứng với giặc thì chúng sẽ giả vờ thua chạy mong rằng ta đuổi theo để dẫn dụ ta vào chỗ chúng đang phục binh. Theo cách tự nhiên, ta trước hết nên chọn năm bẩy tỳ tướng, vài mươi đội tỉnh kỵ, chờ khi giặc tới bốn phía tả hữu trước sau, cho quân đến dẫn dụ ta, hoặc dùng quân tỉnh kỵ bày trận thế xông vào đánh ta, tức thời từ đằng sau quân ta, ta khiến hai viên tướng đi ra, góp kế di chuyển và ứng biến với nhau, đem người ngựa đi vòng quanh, tìm đường về của ngựa giặc, rồi dò xem có phục binh hay không tại các nơi hiểm ải trên đường về ấy. Nếu ta có tức thời chia binh ra hai ba nhóm, thay phiên nhau mà đánh thì giặc phải thua chạy.
Nếu giặc đến đánh ta trước, bên ta đầu đuôi chẳng thấy nhau, như thế quân ta phải rời khỏi chỗ mà giặc đặt phục binh, rồi đem nhuệ binh quay ngược lại đánh ngang vào hông giặc. Bấy giờ đám giặc đến đánh ta không biết rằng bên kia phục binh đã thua chạy, ta bèn sai một toán tỉnh kỵ, vừa đánh vừa lui, thay phiên nhau bọc đánh đích, chờ giặc đi vào chỗ ta phục binh, ta liền đem đầu đuôi giáp lại thì có thể cầm bắt toàn thể quân địch. Đó là chỉ giảng sơ lược về trường hợp toàn quân đang giao thông, phải biết tùy lúc gấp hay hoãn mà ứng đối.
Đ. Gặp cơn tuyết lớn bay mịt mù như vậy, nếu ta có cung cứng, ngựa hay, người mạnh thì việc xảy ra tầm thường không quan-trọng.
Khi đi săn bắn chơi, còn phải xem trời mây huống hồ là hai toán quân tranh nhau thắng bại, muốn thâu lợi lớn về phía mình.
E. Sau cơn tuyết lớn, khi biết là bộ binh của ta khó tiến, quân giặc bèn lập mưu lạ đem nhiều tinh kỵ tới bốn phía chung quanh dinh lũy của ta, khiêu chiẽn để dẫn dụ quân ta, hoặc dùng tinh kỵ chạy qua chạy lại xung phong vào quân ta. Nếu ta đem binh ra, tức thi giặc phân binh tứ tán, đầu đuôi hiệp lại để tới đánh ta, một là đánh dinh trại của ta, một là chận đường lương thảo của ta, ngăn cho hai đầu đuôi của ta không cứu ứng nhau được. Nếu đúng như thế, quân ta ngăn rào cho kỹ mà đừng đi ra, chờ giặc đem binh mạnh tới đánh, ta bèn dùng cung nỏ cứng, loại nỏ sàng tử, cái thì bắn ở trên, cái thì bắn ở dưới. Khi thế giặc đã yếu, không còn chí chiến đấu nữa, ta có thể đem toàn quân ra bắt giặc.
G. Một là ngày mới ra quân, nếu có mưa nhỏ gọi là mưa nhuận binh, ắt sẽ có thắng lớn. Nếu có mưa lớn gọi là mưa mộc thi (thây gỗ) thì phải chọn ngày khác để tiến binh. Việc tuy gấp rút cũng không thế tiến binh được bởi vì thời trời chưa thuận, chỉ tổn hại nhân mạng và khí cụ mà sĩ tốt lại không đẹp lòng.
H. Một là gặp cơn gió lớn thổi tung cát bụi thì không thể tiến binh đánh dẹp. Nếu binh đang đi đường thi nên tìm ngay tại đó có chỗ nào tiện lợi để lập dinh trại, chỉnh đốn binh mã. Nếu phía truớc bỗng gặp phục binh đánh cắt đứt quân ta, hoặc có đánh lớn, đó là điềm cho biết ý trời không thuận cho sự ra binh. Nếu đóng dinh trại ở đồng ruộng thì nên dặn dò quân sĩ hai ba lần hãy giữ vững dinh trại để phòng ngừa giặc theo chiều gió đến la ó mà đánh đinh trại của ta. Nếu ta lập trận đã xong mà có gió ấy thì cũng không đánh mà nên giữ vững.
I. Một là gặp mặt trời và mặt trăng hơi bị ăn, thì không nên tiến binh đánh dẹp, mà chỉ ra lệnh cho ba quân giữ gìn chắc chắn để phòng ngừa giặc đến đánh.
K. Một là quân đang đi đường, gặp nhiều ngọn gió lớn xáp nhau, đập vào nhau, khi thì thổi khi thi nghỉ, bấy giờ phải sợ giữa đường có phục binh đánh, vậy nên đề phòng.
L. Một là gió đập vào mặt người thì không nên tấn binh. Nếu khi phát binh đi trên đường thì gập gió thuận thổi, khi đi được nửa đường hoặc trở về thì gặp gió nghịch thổi, bấy giờ nên lập đinh trại ngay tại đó. Nếu cứ tiến binh, ắt sẽ gặp phục binh. Nếu gặp giặc phải đánh, mà có gió nghịch không phân lớn nhỏ thì không nên giao chiến mà nên giữ vững.Vì đạo trời chưa thuận nên phải thế.
M. Một là khi mới phát binh, gió mưa chẳng có, đi được nửa đường, bỗng có đánh lớn, và có mưa to gió lớn, thì nên chọn gấp chỗ lập dinh trại để giữ vững mà chớ nên tiến binh. Nếu cứ đi tới ắt có huyết chiến.
N. Một là quân đang đi trên đường hay đang đóng dinh trại ở đồng nội, mà gặp mưa to gió lớn, tuyết rơi sương mù, tối tăm mờ mịt thì không nên tiến binh dẹp giặc. Nên vỗ về sĩ tốt để giữ vững là hơn hết.
O. Một là quân đang đóng dinh trại tại đồng nội, chỉ có điềm trời là sắc mây, móng trời, sao băng sa xuống, đất cát thay đổi, chim bay, thú chạy, có giống vật lạ chạy vào dinh trận cắn quân lính, thì nên bói đề tìm hiểu.


32.- PHÉP XEM SƯƠNG RƠI ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI :
Hễ về tháng ba mùa hạ, dương-khí tới mà bỗng nhiên sương rơi xuống lộp độp làm cho đầu cành cây ẩm ướt, ắt sẽ có binh dấy lên từ phương bắc, đến lấy nước, phá thành. Chủ nên phòng bị vực binh. Ngày xưa, hiền thần Trâu Diễn nước Yên bị giam trong ngục, trời bèn giáng sương vào tháng ba thì không tới một tuần, có binh dấy ở phương bắc.


33.- PHÉP XEM MƯA TUYẾT:
Tuyệt là tinh túy của mưa móc không phải do trời mà khởi, không phải do đất mà sanh, mà chính do việc binh của nước mà ứng.
Mùa đông sinh tuyết thì thuận, mùa hè sinh tuyết thì nghịch. Vào tiết hạ chí mà tuyết bay ngàn dặm thì có dấy binh ở biên giới phía bắc. Chủ nên phòng bị.


34.- PHÉP XEM MÓC RƠI ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI:
Móc là do âm khí kết lại mà thành, nó đông lại như mỡ, trông đẹp đẽ như kẹo. Nếu được như vậy, thì thuận lòng trời, binh sẽ gặp điều tốt lành.
Nếu lạnh nhức xương, tê da, ắt sẽ nghịch lòng trời, hành quân sẽ đại bại.
Móc cũng có tên là “rượu của trời”. Ngày xưa, người ta tin rằng Vua Hán Võ Đế được thần tiên dùng tay hứng cho mà uống, chắc phải có lợi gì.


35.- PHÉP XEM MƯA GIÓ NGÀY MỒNG MỘT:
Ngày mồng một tháng giêng mưa to, gió lớ, thổi cát bụi bay lên, làm tróc nóc nhà, chủ về việc tơ lụa hiếm hoi, nghề tằm thất bại, lúa mất mùa.
Ngày mồng một tháng hai có mưa thì tơ xấu, mất mùa lúa. Ngày ba mươi mà mưa thì dân gặp nhiều tật bệnh, chết chóc nhiều và gặp việc dữ.
Ngày mồng một tháng ba có mưa gió thì có nhiều bệnh, có sâu lúa sinh ra, hai thứ lúa mì lớn nhỏ đều không chín, nhân dân chịu sầu khổ.
Ngày mồng một tháng tư có mưa gió thi lúa mì xấu, gạo trở nên đắt đỏ. Ngày ba mươi có mưa lớn thì có bồ cào (sâu keo) gieo nạn dữ.
Ngày mồng một tháng năm có mưa gió thì trâu bò trở nên đắt đỏ. Trong năm ấy nhân dân sẽ đói kém, trở nên sầu oán và sẽ có dấy binh.
Ngày mồng một tháng sáu có mưa gió thì lúa gạo trở nên hiếm hơi đắt đỏ.
Ngày mồng một tháng bảy có mưa gió thi lúa gạo trở nên đắt đỏ, nhân dân không yên ổn, thiên hạ loạn lớn.
Ngày mồng một tháng tám có mưa gió thi đất âm có nhiều vải và lúa mì, khan hiếm gạo và dầu mè.
Ngày mồng một tháng chín có gió mưa thì hột mè khan hiếm cho đến xuân hạ năm sau.
Ngày mồng một tháng mười có gió mưa là chủ về việc có khô hạm, hột mè khan hiếm.
Ngày mồng một tháng mười một có gió mưa thì việc binh gặp nhiều tai nạn. .
Ngày mồng một tháng chạp có gió mưa thì mùa xuân bị khô hạn, mùa hè bi lụt lội, gạo lúa trở nên đắt đỏ.
MỘ BINH

36.- TUYỂN MỘ:
Đặt ra ba bậc đề tuyển mộ tráng sĩ. Từ quan lại trở xuống, đều phải cử người mà mình biết rõ.
Những kẻ giặc cướp thi để vào bậc trên, những kẻ đả thương hoặc trộm cắp cho vào bậc thứ hai, những kẻ không lo việc nhà thì cho vào bậc dưới.
Khiến nhóm họp các tướng và để 300 cỗ xe ngựa cho họ dùng, rồi tuyển mộ quân cảm tử để hầu hạ họ: nếu không phá được địch, cũng không đến nỗi mất nhuệ khí.

37.- BINH MẠNH:
Trong phép chiến thắng có 5 việc cốt yếu:
1) Sắp sẵn bào giáp, binh khí.
2) Lo kiếm người, ngựa. xe cho đủ.
3) Chứa trữ nhiều.
4) Huấn luyện sĩ tốt.
5) Chọn tướng giỏi.
Năm việc trên đã chuẩn bị xong rồi mới có quân đội mạnh mẽ được.

38.- CHỌN BINH ĐỂ TẬP LUYỆN:
Binh cần tinh nhuệ chớ không cần nhiều.
Nên chọn những kẻ khoẻ mạnh mà dùng chớ chọn những kẻ ốm yếu để khoe số đông.
Những hạng có thể thâu nạp để huấn luyện là những kẻ:
1) Có nhiều anh em.
2) Không cha mẹ.
3) Tuy đơn độc nhưng có con nối dõi,
4) Nhà tuy nghèo nhưng có tài sức mạnh khoẻ.
CHỌN TƯỚNG

39.- XÉT TƯỚNG:
Muốn biết nguời nên xét tám chứng cớ sau này:
1) Thứ nhất là hỏi họ, buộc họ phải trả lời để dò xem kiến thức tường tận của họ.
2) Thứ hai là lấy lời gạn hỏi họ để xem tài ứng biến của họ.
3) Thứ ba là dùng gián điệp dò xét họ để xem lòng thành thực cửa họ.
4) Thứ tư là buộc họ giảng giải rõ ràng để xem đức độ của họ.
5) Thứ năm là dùng tiền của mà sai khiến họ để xem tánh liêm khiết của họ.
6) Thứ sáu là dùng sắc đẹp mà thử họ để xem lòng trinh chính của họ.
7) Thứ bẩy là đem việc khó mà bảo họ để xem lòng dũng cảm của họ.
8) Thứ tám là cho bọ uống rượu say để xem thái độ của họ.

40.- DÙNG TƯỚNG:
Hỏi: Nếu có một viên tướng mạnh dạn, một viên tướng cơ trí phải dùng họ như thế nào mới được?
Đáp: Tướng mạnh dạn thì có tài đánh phá chỗ kiên cố của địch, vây hãm trận địch, có tướng mạnh thì có thể gây nên thế mạnh. Về việc lo liệu đối phó với quân địch, sắp đặt kế hay, tùy cơ ứng biến, nếu không có tướng cơ trí thì không thể làm được.
Nếu tướng chỉ cậy dõng cảm mà thôi thì phải thua mưu trí vậy. Cho nên ngày xưa, xây đàn, lên đài, đẩy trục xe (*), ắt phải tìm mời tướng súy có cơ trí để làm chỗ trông cậy cho người tướng mạnh dạn. Do đó người làm chủ tướng không cần phải biết phép thuật, đánh gươm cưỡi ngựa, bắn cung, mà cần phải hiểu biết thông suốt các việc xưa nay.
Vậy phải giao trách nhiệm chỉ huy cho ai? Muốn biết một viên tướng là tài giỏi hay ngu tối, ta phải thử thách họ để coi họ động lòng hay không.
(*) Đó là phép đăng đàn bái tướng của vua chúa đời xưa: Võ Vương phong tướng cho Khương Tử Nha, Hán Cao Tổ phong tướng cho Hàn Tín… vân vân...